Amiang

24/02/2020

BỆNH LÝ Ở CƠ QUAN HÔ HẤP DO HÍT PHẢI SỢI AMIANG

1.     MỞ ĐẦU

Các bệnh lý do amiang gây nên được phân nhóm trong danh sách phân loại các bệnh lý nghề nghiệp . Một số vật liệu sợi, tự nhiên hay tổng hợp, rất có ích trong công nghệ trên thế giới, nhưng việc hít phải các sợi này là hết sức nguy hiểm cho sức khỏe con người, trong đó có amiang.

Sợi amiang là một phần tử dài có các bờ song song với nhau, đường kính dưới 3µm, nhưng chiều dài hơn 5µm và tỉ lệ giữa chiều dài và đường kính phải lớn hơn 3. Có nhiều loại amiang được biết, nhưng tồn tại 3 dạng hay gặp nhất có tính thương mại là chrysotile, amosite và crocidolite. Trong các dạng tổng hợp trên, chrysotile ( amiang trắng) là  đa dạng được sử dụng nhiều nhất,  khoảng 95% và là dạng duy nhất thương mại hóa chiếm trên 99,5% thị trường. Một số sợi khác không phi thương mại có thể gây ra các bệnh lý khi hít phải chúng: đó là anthophyllite được tìm thấy chủ yếu ở Phần Lan và trémolite được tìm thấy ở một số mỏ ở Mỹ hay Quebec (Canada). Việc hít phải các sợi có thể do các sợi amiang phát tán trong môi trường, như ở Thổ Nhĩ Kỳ, Tân-Caledonie, đảo Corse,  Hy Lạp, Chypre và Afghanistan.

Các sợi được sử dụng thông thường là chrysotile (amiang trắng). Các sợi này được sử dụng rộng rãi do giá thành thấp và đặc tính vật lý quan trọng, đặc biệt trong việc cách nhiệt.

Các bệnh lý liên quan đến việc tiếp xúc vơi amiang khó xác định ngay được do bệnh  chỉ xuất hiện  sau thời hạn tiếp xúc trên 20 năm, thậm chí 35 đến 40 năm. Do đó  để hiểu thấu đáo khi xem xét việc tiếp xúc của các bệnh nhân bị ung thư  do hít phải sợi amiang khác nhau, đôi khi rất khó khăn .

Tuy vậy, một vài phương pháp có thể giúp cho tiến trình chẩn đoán này như tiểu sử nghề nghiệp và hoàn cảnh sống, đặc biệt là sau khi bơm rửa phế quản phế nang có thể tìm thấy các sợi amiang. Đó là các thể của bệnh bụi phổi amiang (asbestosis). Chúng chỉ đơn thuần cho chúng ta biết sự phơi nhiễm amiang trước lúc làm xét nghiệm này là 15 năm..

2.     BỆNH LÝ HÔ HẤP KHÔNG ÁC TÍNH DO HÍT PHẢI SỢI AMIANG

Các bệnh lý hô hấp không ác tính này liên quan đến việc viêm mạn tính đôi khi có thể dẫn tới bệnh xơ phổi hay màng phổi. Do vậy có hai dạng: hoặc là xơ phổi, được đặt tên là với bệnh bụi phổi do amiang ; hoặc tràn dịch màng phổi dịch tiết, gọi là xơ màng phổi khu trú hay lan tỏa.

2.1.          Bệnh bụi phổi do amiang (asbestosis)

Đó là bệnh xơ phổi mô kẽ lan tỏa gây ra do sự ứ đọng nhiều sợi amiang. Bệnh lý này được gọi là xơ nhu mô phổi và khác với bệnh lý màng phổi mà chúng ta sẽ đề cập đến dạng xơ hóa hyaline màng phổi. Các biểu hiện mô học như trong xơ phổi mô kẽ lan tỏa tự phát. Đôi khi, với kính hiển vi quang học, có thể thấy các thể của bệnh bụi phổi amiang cho thấy nguyên nhân của bệnh lý xơ phổi. Với các nhà lâm sàng, việc chẩn đoán đôi khi còn khó khăn ở những giai đoạn đầu tiên. Tuy vậy việc nghe thấy ran nổ nhỏ hạt vào cuối giai đoạn thở ra được xem như dấu hiệu sớm nhất. Đôi khi chúng có thể kết hợp với dấu hiệu ngón tay dùi trống, tuy dấu hiệu này tương đối hiếm.

 Hình ảnh chụp X-quang  hiển nhiên hết sức cần thiết trong chẩn đoán. Đầu tiên dựa vào hình ảnh thẳng của X-quang. Dựa vào tiêu chuẩn của Văn phòng Lao động Quốc tế (ILO) và để chắc chắn sau đó cần chụp cắt lớp với độ phân giải cao, hoặc hình ảnh chụp mỏng từng milimét mà không tiêm thuốc cản quang (cho bệnh nhân nằm ngữa, hoặc có thể nằm nghiêng). Qua đó cho phép loại bỏ các hình ảnh giả mô kẽ ở vùng sau do ứ đọng mạch máu. Các hình mờ thường là đường cong, dưới màng phổi, thành đường to hay dạng lưới, vuông góc hay nghiêng, liên quan đến màng phổi và rãnh liên thùy với các hình ảnh dạng kính mờ.

Thăm dò chức năng hô hấp, trong trường hợp asbestosis, được đặc trưng với rối loạn thông khí hạn chế rõ nét, kết hợp với tình trạng giảm đàn hồi, nhưng khó phát hiện ở giai đoạn đầu của triệu chứng. Trên phương diện chức năng hô hấp, chúng ta có thể nhận thấy khả năng vận chuyển của monoxytecarbon giảm rõ nét. Không được quên rằng trong kiểm tra, phải thực hiện việc rửa phế quản, phế nang nhằm khảo sát về chất khoáng, điều này sẽ giúp phép định lượng mức độ nặng của sợi amiang trên phế nang. Trong trường hợp đó, chúng ta sẽ tìm thấy viêm phế nang đại thực bào chiếm ưu thế khi rửa phế quản phế nang.

2.2.          Các biểu hiện lành tính do amiang trên màng phổi

Nhóm này sẽ được xếp vào bệnh màng phổi mà thời gian về việc xuất hiện rất khác nhau, tuân thủ theo các cơ chế rõ ràng. Ban đầu là viêm màng phổi do amiang, thường là viêm màng phổi với dịch tiết, bán cấp, hay gặp ở những bệnh nhân trẻ, 15 năm sau khi bắt đầu tiếp xúc vơi amiang, thường là không triệu chứng, đôi khi tái phát lại, sau đó màng phổi dày lên, là nguyên nhân gây ra rối loạn thông khí hạn chế mức độ nhẹ. Các nhà phổi học cần hết sức thận trọng với các trường hợp tràn dịch màng phổi như thế và cần theo dõi chặt chẽ vì các loại viêm màng phổi dịch tiết thường có thể là biểu hiện của bênh lý nghiêm trọng hơn, đặc biệt là u trung biểu mô màng phổi. Trong trường hợp nghi ngờ ít nhất cần phải nội soi màng phổi khi việc tràn dịch màng phổi chưa được chẩn đoán.

Xơ màng phổi còn được gọi là bệnh hyalin xơ màng phổi, bệnh này hay gặp nhất. Chúng ta thấy được sự canxi hóa kèm theo dày màng phổi, thường là fibrohyalins (xơ hoá - kính) và có thể kèm theo việc mất đi góc màng phổi.

Các mảng màng phổi  đó là những chấn  thương thấy được có liên quan đến aminang, tương ứng với xơ màng phổi hyalin sau đó bị canxi hóa. Chẩn đoán phân biệt với di chứng của lao với hình ảnh nang mực. Rất cần thiết để nhận biết bệnh lý hyalin xơ màng phổi có những mảng fibro-hyaline hai bên và dạng một bên hiện nay đã được công nhận trong bệnh lý nghề nghiệp. Các mảng màng phổi thường khó xác định trên phim phổi chuẩn, trái lại, chụp cắt lớp lồng ngực không tiêm chất cản quang cho phép quan sát dễ dàng các mảng này.

Dày màng phổi lan tỏa là do xơ lan tỏa màng phổi, kết hợp dày dính các màng phổi và các hình ảnh này thường đến ngoài diễn tiến theo sau khi bị viêm màng phổi lành tính, một bệnh lý kiểu asbestosis dưới màng phổi, tác động đến các mô liên kết dưới màng phổi.

Các hình ảnh còn lại, xẹp phổi dạng cuốn, còn được gọi là xẹp tròn, các hình ảnh bất thường này là do một chấn thương đặc hình tròn, dạng u, gây ra xẹp dưới màng phổi. Đặc điểm lành tính của vết thương tương đối khó đánh giá chính xác qua X quang phổi, thậm chí với CT ngực, do chúng thường gây nhầm lẫn dể dàng với ung thư ngoại biên và chẩn đoán cuối cùng thường chỉ được xác định sau khi can thiệp ngoại khoa và xét nghiêm giải phẩu bệnh tức thời.

Tiên lượng của các bệnh lý nhu mô màng phổi không u của amiang. Các mảng xơ fibro-hyalin, với lý do không có mạch máu nối với chúng, có tiên lượng tương đối tốt. Tuy nhiên, nó luôn tồn tại việc tăng sinh mạch máu vùng bên cạnh các mảng và các tăng tân tạo tưới máu này có thể thúc đẩy tạo ra bệnh lý ung thư. Về bệnh lý bụi phổi do nhiễm amiang là xơ phổi, chúng diễn tiến rất nhanh thành suy hô hấp mạn tính, cần thiết oxy liệu pháp dài hạn và trái với bệnh bụi phổi do chất silic (silicosis), bệnh nhân cần thở với lưu lượng oxy cao nhiều, đôi khi đến 5, 6, 7 lít/phút, suốt thời gian 24/24 giờ.

3.     CÁC BIỂU HIỆN UNG THƯ CƠ QUAN HÔ HẤP DO HÍT PHẢI CÁC SỢI AMIANG

 Ung thư phế quản  nguyên phát có nguy cơ cao ở những công nhân làm việc tiếp xúc với amiang, điều này không cần phải bàn luận và  năm 1999 hội nghị phòng chống các bệnh phổi ở Paris đã thống nhất quan điểm này. Qua báo cáo của l’INSERM, năm 1996, một người tiếp xúc amiang có nguy cơ bị ung thư phế quản nguyên phát gấp 5 lần so với người không tiếp xúc với amiang. Nếu một bệnh nhân không hút thuốc, không phơi nhiễm với amiang với tỉ lệ là 1; tỉ lệ này với một người hút thuốc không tiếp xúc với amiang là 11 và với người hút thuốc có phơi nhiễm amiang tăng lên cao, tăng lên 55 lần nguy cơ xuất hiện ung thư phế quản.

Bên cạnh u phổi, u trung biểu mô màng phổi, loại u tiêu biểu nhất được tạo ra do hít phải các sợi amiang, thường thể hiện rõ nét ở màng phổi, hiếm thấy hơn ở phúc mạc và màng ngoài tim. Việc chẩn đoán u trung biểu mô màng phổi đôi khi khó khăn . Tuy nhiên có thể dễ dàng hơn khi nội soi màng phổi và lấy mẫu bệnh phẩm quan sát( sinh thiết), ngoài thời điểm tiến hành xét nghiệm. Hình ảnh trên X quang dạng khối, ở màng phổi, thường tạo nên một số bóng treo vào màng phổi và hình ảnh đặc trưng trên CT ngực giúp chẩn đoán sơ bộ từ đó thực hiện nội soi màng phổi..

Đôi khi việc chẩn đoán phân biệt ung thư tuyến và u trung biểu mô màng phổi gặp khó khăn trong giải phẫu bệnh học. Nghiên cứu hóa mô miễn dịch, hiện nay cho phép chẩn đoán phân biệt chúng tốt hơn nhờ vào sự trợ giúp của kératine, vimentine và kháng nguyên carcino-embryonnaire, ACE. Vimentine dương tính, ACE âm tính, chiếm ưu thế trong u trung mô màng phổi, vimentine âm tính, ACE dương tính chiếm ưu thế trong ung thư tế bào tuyến.

Các bất thường ác tính dạng u trung biểu mô màng phổi hay gặp với các trường hợp phơi nhiễm amiang, thường xuất hiện trên 85% trường hợp u trung biểu mô màng phổi do hít phải các sợi amiang, có thể do môi trường lao động hay từ môi trường sống. Bệnh rất thường gặp sau 35 đến 40 năm kể từ khi bắt đầu phơi nhiễm. Tuy nhiên có thẻ chỉ ngay sau khi tiếp xúc ngắn hạn trong vài tháng, nếu bị phơi nhiễm trầm trọng. Tại Pháp, từ 1995 đến 2005, hàng năm có khoảng trên 1000 trường hợp bị u trung biểu mô màng phổi do có tiếp xúc với amiang.

Qua các xét nghiệm và phân tích y học,  người ta đang lo sợ mối nguy hiểm tương tự về việc xuất hiện các triệu chứng U ở phổi nếu vẫn tiếp tục sử dụng amiang, kể cả amiang chrysotile .

BS. Jean-Pierre Grignet Khoa Hô hấp. Bệnh viện Denain, Pháp