Amiang
24/02/2020NHỮNG TRANH LUẬN XUNG QUANH TÁC HẠI CỦA AMIĂNG TRẮNG.
Amiang đã từng được coi là một loại vật liệu tuyệt vời vì nó
có những tính chất ưu việt mà ít loại vật liệu tự nhiên nào có được, đó là: khả
năng chịu nhiệt, cách điện, chịu mài mòn tốt. Vì thế nó là nguyên liệu dùng để
sản xuất hơn 3000 loại sản phẩm khác nhau từ tấm lợp, ống thoát nước, vách ngăn
cách âm, cách nhiệt, má phanh ...
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, Việt Nam đã trở thành một trong 10 nước tiêu thụ Amiang nhiều nhất thế giới,
trung bình mỗi năm khoảng 60.000 tấn. Amiang
chủ yếu được nhập từ Nga, chiếm hơn 85% tổng lượng Amiang nhập vào Việt Nam; lượng
Amiang tiêu thụ tại Việt Nam
có xu hướng tăng. Nếu năm 2008, lượng Amiang tiêu thụ tại Việt Nam là xấp xỉ 50.000 tấn ( đứng thứ 10 thế giới),
năm 2010 là ~60.000 tấn (đứng thứ 9) thì
năm 2012 là gần 79.000 tấn (đứng thứ 6) [2]. Nếu tính theo đầu người thì Kazastan
là nước tiêu thụ nhiều nhất, 9,24 kg/người/năm. Trung Quốc và Ấn Độ là những quốc
gia đông dân số nhất thế giới nên lượng Amiang tính theo đầu người, lần lượt
là 0,47 kg/người/năm và 0,26 kg/người/năm, còn thấp hơn Việt Nam (0,68 kg/người/năm
vào năm 2010). Ngoài Amiang, Việt Nam còn nhập rất nhiều sản phẩm chứa Amiang, ví dụ: vải, má
phanh, vật liệu cách nhiệt, gioăng đệm, thừng, sợi, thảm; đặc biệt
các tấm phẳng để trang trí hoặc ngăn che trong các toà nhà chung cư
cao tầng, nhà văn phòng... Các sản phẩm này được nhập từ Trung Quốc,
Thái Lan, Ấn Độ, Đài Loan, Mỹ… và cả từ các nước đã cấm sử dụng Amiang như Hàn Quốc, Nhật
Bản, Singapore [1].
Loài người có thể cứ tiếp tục sử dụng Amiang trong mọi hoạt động sinh hoạt
và sản xuất nếu như các nhà khoa học không phát hiện ra mặt trái của nó: tác hại
đến sức khoẻ con người. 115 năm trước, khi Lucy Deane phát hiện ra
các bằng chứng về tác hại của Amiang, sau đó số người mắc bệnh và chết
vì các bệnh liên quan đến Amiang cứ tăng dần.
Đặc biệt vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước, người ta bắt đầu
phát hiện hàng loạt bệnh nhân bị tử vong do các bệnh về phổi liên
quan đến Amiang. Những người này đều đã từng làm việc ở các cơ sở sản xuất Amiang. Theo ước tính của Tổ
chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm trên thế giới các bệnh liên quan đến Amiang cướp đi sinh mạng khoảng
100.000 người.
Xu
hướng chung của thế giới là ngày càng có nhiều nước cấm sử dụng hoặc hạn chế sử
dụng Amiang. Trong số 143 nước tiêu thụ Amiang, cho đến nay đã có 54 nước cấm
hoàn toàn sử dụng Amiang và các sản phẩm chứa Amiang. Tại Hội nghị về Công ước
Rotterdam lần thứ VI tổ chức tại Geneva,
Thuỵ Sỹ từ 28/4 đến 10/5/2013, trong số 152 nước và Liên minh châu Âu, đại đa số
đồng ý, chỉ có 7 nước (trong đó có Việt Nam) phản đối đưa Amiang trắng vào phụ
lục III của Công ước (Công ước Rotterdam là
công ước trong đó yêu cầu rõ ràng về thủ tục thỏa thuận phải thông báo trước đối với một số
thuốc bảo vệ thực vật nguy hại và hóa chất công nghiệp trong thương mại quốc tế). Vai trò của Công ước Rotterdam
là hạn
chế xuất nhập khẩu thuốc bảo vệ thực vật nguy hại và hóa chất công nghiệp nhằm
xây dựng môi trường an toàn hóa chất toàn cầu. Kèm
theo Công ước Rotterdam còn có 6 phụ lục; Phụ lục 3 của công ước này là danh
mục các loại hóa chất công nghiệp và thuốc bảo vệ thực vật thuộc diện phải quản
lý đặc biệt; hiện nay phụ lục này bao gồm 47 hoá chất nguy hại
(gồm 33 hoá chất là thuốc trừ sâu và 14 hoá chất công nghiệp), trong
đó có 5 loại Amiang nhóm Amphibol là: Actinolite, Anthophyllite, Amosite,
Crocidolite, và Tremolite. Ngay từ Hội nghị Rotterdam lần thứ 4 (2009) Amiang
trắng đã được đề nghị đưa vào phụ lục III; sau đó đến hội nghị lần
5 (2011) và lần 6 (2013) đề nghị đó vẫn chưa được nhất trí thông qua.
Hội nghị Rotterdam lần thứ 7 tại Rome (2015) sẽ tiếp tục xem xét. Cũng
cần lưu ý là, các
hoá chất đưa vào phụ lục III không có nghĩa bị cấm hoặc hạn chế
buôn bán, nhưng nó sẽ tăng cường việc bảo vệ cho sức khoẻ con
người và môi trường thông qua việc trao đổi thông tin về an toàn giữa
các nước xuất khẩu và nước nhập khẩu hoá chất.
Vì tác hại của Amiang nâu và xanh đã rất rõ
ràng nên việc cấm sử dụng chúng đã được hầu hết các nước trên thế giới đồng
tình và ủng hộ. Tuy nhiên, đối với Amiang trắng thì lại còn tranh cãi. Hiệp
hội Amiang Chrysotile quốc tế (ICA) là tổ chức vận động mạnh mẽ, cổ suý cho việc
sử dụng Amiang trắng.
Đây cũng là đại diện tiêu biểu nhất của phe ủng hộ sử dụng Amiang.
Trong một công văn trả lời TS. Mahmood A.
Khwaja, chuyên gia cao cấp của Viện chính sách phát triển bền vững
Pakistan, Ông Jean-Marc Leblond, chủ tịch của Hiệp hội Amiăng
trắng quốc tế (International Chrysotile Association= ICA), đã đưa ra những
luận điểm để bảo vệ việc sử dụng Amiăng
trắng mà ông ta cho rằng “ rất an toàn để sử dụng”. Quan điểm này cũng
tương đối phổ biến cho phái ủng hộ sử dụng Amiang trắng.
Sau đây là tóm tắt phản biện của các nhà khoa học đối
với các luận điểm của ICA về Amiăng trắng.
1) ICA khẳng định rằng “có nhiều bằng chứng khoa học khẳng định rằng Amiang Chrysotile có thể sử dụng một
cách an toàn”
Phản biện: Trên thực tế, nhiều bằng chứng khoa học cho thấy Amiang gây nên các bệnh chết
người và việc sử dụng “an toàn” Amiang chưa bao giờ được văn bản hoá.
Ngay cả tại Canada, một quốc gia được luật hoá và có khoa học phát triển, nơi
mà Amiang đã
được khai thác và sử dụng ở vùng Quebec hàng trăm năm nay, tất cả các Trưởng Ban
Y tế của chính quyền Quebec đều cảnh báo rằng không thể nào “sử dụng Amiang một cách an toàn”.
Chính quyền Quebec hiện tại đã hoàn toàn chấm dứt việc hỗ trợ ngành công nghiệp
Amiang của Quebec. Do Amiang đã từng được sử dụng, ủy
ban ATVSLĐ Quebec báo cáo rằng các bệnh có liên quan đến Amiang chiếm 70% tổng số các
trường hợp tử vong do các bệnh nghề nghiệp (BNN). Trong khi một số lượng nhỏ
các nhà khoa học được các ngành công nghiệp Amiang đỡ đầu phủ nhận các nguy cơ về
sức khỏe của Amiang và
ủng hộ việc tiếp tục sử dụng nó, thì trên thế giới không một tổ chức khoa học có
tiếng nào ủng hộ quan điểm này.
Tổ chức Y tế thế giới ( WHO), Tổ chức
Lao động quốc tế ( ILO) và Ngân hàng thế giới (WB) đã đồng loạt kêu gọi ngừng sử
dụng Amiang Chrysotile. Cũng cần lưu ý là,
trên thế giới, 100% lượng amiang thương mại đều là Amiang Chrysotile. Trong thế kỷ trước, Amiang Chrysotile chiếm 95% lượng Amiang thương mại và 5% còn lại
là các dạng Amiang
khác. WHO cho biết hằng năm có 107.000 trường hợp tử vong do tiếp xúc với Amiang.
Hiệp hội Kiểm soát Ung thư quốc tế với hơn 700
tổ chức thành viên ở 155 quốc gia, Liên đoàn các Hiệp hội Y tế Công cộng thế giới,
Ủy ban Sức khỏe Lao động quốc tế, Hiệp hội An sinh quốc tế và Liên hiệp Công đoàn thế giới - đại diện cho
175 triệu công nhân ở 151 quốc gia, đã đồng loạt kêu gọi cấm sử dụng Amiang dưới mọi hình thức, bao
gồm cả Amiang Chrysotile.
2) ICA khẳng định rằng các loại
vật liệu xây dựng ximăng có chứa Chrysotile “sẽ không gây nên bất kỳ rủi ro đáng kể nào tới
các công nhân, cộng đồng và môi trường, chỉ cần áp dụng các biện pháp kiểm soát
đơn giản”.
Phản biện: Trên thực tế, WHO đã đặc biệt nhấn mạnh mối nguy hiểm của
các vật liệu xi măng xây dựng có chứa Chrysotile, trong đó nêu rõ : “Một lượng
lớn công nhân đã bị ảnh hưởng, vấn đề phơi nhiễm rất khó kiểm soát và các vật
liệu tại chỗ có nguy cơ bị hư hỏng, trở nên nguy hiểm với những người thực hiện
công tác thay đổi, bảo dưỡng và phá dỡ”.
3) ICA khẳng định rằng
các dạng khác của Amiang rất nguy hiểm, nhưng riêng Amiang trắng “có thể và đang
được sử dụng một cách an toàn, với mức độ tiếp xúc thấp nó sẽ không gây nên rủi
ro đáng kể với sức khỏe”.
Phản biện: Trên thực tế, các nghiên cứu đồng thuận về mặt khoa học đều
khẳng định rằng, như WHO đã nêu ra, không hề có mức độ tiếp xúc nào với Amiang trắng là an toàn, và
cách duy nhất để phòng ngừa các bệnh có liên quan đến Amiang là chấm dứt sử dụng nó dưới mọi hình thức. Không có
một tổ chức khoa học có uy tín nào trên thế ủng hộ việc sản xuất và sử dụng Amiang.
4) ICA khẳng định rằng các loại sợi thay thế đều “ không ổn định,
đắt hơn, kém bền và, không như Amiang trắng có độ rủi ro tối thiểu, chúng có nguy cơ
tiềm ẩn không xác định với sức khỏe công nhân”.
Phản biện: Trên thực tế, cả WHO và WB đồng thời
khẳng định, các vật liệu thay thế an toàn hơn bằng sợi hoặc không có sợi đều sẵn
có và đã thỏa mãn nhu cầu sử dụng trong hàng thập kỷ. Các nghiên cứu được thực
hiện ở Thái lan cho thấy sự chênh lệch giá cả là tối thiểu. Tuy nhiên, việc sử
dụng Amiang trắng
gây tổn thất kinh tế rất lớn trong việc chăm sóc sức khỏe, cũng như trong các
biện pháp an toàn khi xây dựng, cải tạo, sửa chữa hoặc dỡ bỏ các công trình, hoặc
khi khắc phục những thiệt hại do thiên tai như động đất, bão tố. Ngành công nghiệp Amiang nằm ngoài tác động của
các thiệt hại này, thay vào đó các chính quyền và người dân phải hứng chịu thiệt
hại cả về người và của.
5) ICA khẳng định rằng 129 quốc
gia thành viên của WHO, trong đó bao gồm cả Mỹ và Canada vẫn đang sử dụng Amiang cho tới bây giờ.
Phản biện: Cả ở Mỹ và Canada các hoạt động sử dụng
Amiang gần như đã chấm dứt.
Vào năm 1980, nước Mỹ sử dụng 350.000 tấn
Amiang. Năm 2011, Mỹ sử dụng
961 tấn – chưa bằng 0,3% khối lượng năm 1980. Năm 2011, 5 quốc gia gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Brazil và Kazastan, chiếm
74% lượng tiêu thụ Amiang toàn cầu. Từ năm 2000 đến năm 2012, số lượng các quốc gia
cấm sử dụng Amiang đã
tăng gấp 3 lần, từ 18 nước lên 54 nước, số lượng các quốc gia sử dụng Amiang cũng giảm 53% trong khoảng
thời gian này. Đến năm 2012, chỉ còn 15 quốc gia sử dụng ở mức hơn 500 tấn Amiang/quốc gia mỗi năm.
Amiang gây nên những thiệt hại to lớn
cả về nhân mạng và tài chính ở những quốc gia sử dụng nó. Trong nỗ lực bảo vệ lợi
nhuận của mình, ngành công nghiệp Amiang nhắm đến những quốc gia đang
cân nhắc việc cấm sử dụng Amiang và có những cuộc vận động hành lang mạnh mẽ.
6) Tiến sĩ vật lý David
Bernstein, người được ICA nhắc đến rất nhiều lần với vai trò cố vấn, khẳng định
rằng Amiang trắng sẽ rất nhanh bị
đào thải khỏi phổi.
Phản biện: ICA tuyên bố rằng một nghiên cứu gần
đây với tiêu đề “Xét lại nguy cơ tới sức
khỏe của Amiang trắng” được thực hiện bởi tiến sĩ Bernstein và đồng nghiệp “có liên
quan tối quan trọng tới cuộc thảo luận của quý vị”. ICA “ thuyết phục quý vị và
các quý đồng nghiệp chú ý sâu sắc tới nội dung của nó”. ICA chưa hề tiết lộ rằng
ICA đã đầu tư cho nghiên cứu này.
Mặc dù tiến sĩ Bernstein tự giới thiệu
rằng mình là một nhà nghiên cứu độc lập, tuy nhiên khi được một trọng tài xét hỏi,
ông đã thừa nhận rằng tất cả các nghiên cứu về Amiang trắng của mình đã được đầu tư bởi
ngành công nghiệp Amiang và các tập đoàn đang đối mặt với sự kiện tụng vì các
thiệt hại do Amiang
gây ra. Tiến sĩ Bernstein đã thừa nhận rằng không một tổ chức khoa học nào đồng ý với quan điểm của
ông về Amiang trắng.
Theo báo cáo, tiến sĩ Bernstein đã nhận
được 1 triệu USD từ tổ chức vận động ủng hộ Amiang trắng của Canada (Viện Nghiên cứu
Amiang, giờ đổi tên là Viện Nghiên cứu Amiang trắng), từ đó thực hiện nghiên cứu
có tên “Tính bền vững sinh học của Amiang trắng Canada”, được xếp đầu
tiên trong danh sách các nghiên cứu được ICA thống kê trong bức thư của họ. Viện
Nghiên cứu Amiang đã phát hành nghiên cứu của tiến sĩ Bernstein một cách rầm rộ
vào tháng 9 năm 2003. Khi xuất bản trên truyền thông, Viện Nghiên cứu Amiang đã
tuyên bố: dựa
vào các kết quả nghiên cứu của TS Bernstein, Viện Amiang Quebec khuyến khích
các nhà nhập khẩu tăng cường tiêu thụ Amiang Chrysotile của họ.
Trên thực tế, rất nhiều sợi Amiang trắng không bị đào thải
ra khỏi phổi, mà chúng được chuyển vào trong màng phổi, gây nên ung thư trung biểu mô (UTBM). Các
nghiên cứu của Pháp, Mỹ và Nhật Bản cho thấy phần lớn các sợi trong phổi của
các trường hợp bệnh trên đều là sợi Amiang trắng, đôi khi đó còn là loại sợi
duy nhất tồn tại. Hơn thế nữa các chất gây ung thư khác (như formaldehyde,
benzene, vinyl chloride, benzidine) có thời gian tồn tại trong cơ thể con người
ngắn hơn sợi khoáng Amiang trắng rất nhiều. Tuyên ngôn về Amiang của JPC-SE đã cho thấy
ngành công nghiệp Amiang đã coi thường chính sách y tế công cộng như thế nào:
“Giống như cách mà ngành công nghiệp thuốc lá đã làm, ngành công nghiệp Amiang đã đầu tư và thao túng
các nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra các kết quả có lợi cho bản thân”. Tuyên
ngôn cũng ghi lại cách thức mà ngành công nghiệp này đã ngụy tạo ra các tổ chức
bình phong để khẳng định rằng: “dù các dạng Amiang khác rất nguy hại, nhưng Amiang trắng lại bị đào thải
khỏi phổi rất nhanh, do đó không có đe dọa gì tới sức khỏe”???.
Tuyên ngôn cũng khẳng định rằng: “
Các cơ quan khoa học uy tín và độc lập đã phản đối các lập luận trên, do chúng
mang tính sai sót, lừa dối và nguy hiểm”.
Những lập luận phản biện trên là khá
sắc bén. Tuy nhiên, cuộc tranh luận này vẫn chưa ngã ngũ, ICA chưa chấp nhận chịu
thua. Cuộc chiến chưa thể kết thúc khi lợi nhuận của các nhà sản xuất Amiang vẫn mang lại cho họ những
khoản tiền kếch xù.
Cần nhấn mạnh rằng, ngay từ năm 2001
Chính phủ Việt Nam đã đưa ra lộ trình cấm sử dụng Amiang ở tất cả các dạng và hướng
người dân chuyển sang sử dụng các sản phẩm không Amiang. Tuy nhiên đến năm 2004 (là thời
hạn chót cấm hoàn toàn việc sử dụng tất cả cá loại Amiang), vì các lý do khác
nhau, Chính phủ đã cho phép kéo dài thêm thời hạn sử dụng Amiang trắng. Tuy nhiên, cấm
xây dựng mới các nhà máy sử dụng Amiang và khuyến khích việc nghiên cứu
và sử dụng cá loại sợi thay thế Amiang. Một trong các loại sợi được
dùng để sản xuất tấm lợp không Amiang hiện nay là sợi PVA do nó có các đặc tính ưu việt như:
cường độ bền kéo cao, modun đàn hồi cao, đặc biệt là khả năng tạo liên kết vững
chắc với phần tử xi măng trong quá trình thủy hóa, khả năng co dãn, kháng kiềm…Dây
truyền công nghệ sản xuất tấm lợp không chứa Amiang (thay thế bằng sợi PVA) đã được
lắp đặt tại Việt Nam từ năm 2007, và từ năm 2008 đến nay các sản phẩm tấm lợp không
Amiang sử dụng PVA đã được sản
xuất và chủ yếu cung ứng cho thị trường quốc tế với chất lượng cao [2]. Tiếc
rằng, do giá thành còn khá cao nên các tấm lợp không Amiăng vẫn chưa có chỗ
đứng trên thị trường trong nước.
Mặc dù các kết quả điều tra về các bệnh liên quan đến Amiang ở Việt Nam
chưa đưa ra các con số báo động về tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết do Amiang vì
nhiều lý do khác nhau nhưng các nghiên cứu của các nước tiên tiến trên thế giới
đã chỉ ra tính nguy hiểm của Amiang cũng như tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết ngày
càng tăng cao của những người tiếp xúc với Amiang. Chúng tôi cho rằng, Việt Nam
cũng cần xem xét cẩn trọng khuynh hướng chung của thế giới mà có
các quốc sách phù hợp, vừa đảm bảo lợi ích cho sức khoẻ của người
tiêu dùng, vừa không mang tiếng là quốc gia có quan điểm bảo thủ, lạc
hậu và không nhân đạo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Công ước Rotterdam, 2013
2.
Đỗ Quốc
Quang: Những tiến bộ trong công nghệ sản
xuất tấm lợp không Amiang ở Việt Nam, 2010;
3.
Hồ sơ quốc
gia về sức khỏe nghề nghiệp liên quan đến Amiang
năm 2009, 2010, 2011;
4. Quyết định 115/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ
Về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây
dựng Việt Nam đến năm 2010, 2001
5. Quyết định 133/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ
Về việc sửa đổi một số diều trong QĐ 115/2001/QĐ-TTg, 2004;
6. Quyết định 212/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ
Về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây
dựng Việt Nam đến năm 2020, 2008;
7.
Số liệu
điều tra về nhập khẩu amiang của Tổng cục Hải quan năm 2009, 2010, 2011 và
2012;
8.
David M.
Bernstein, Rick Rogers, Paul Smith: The
biopersistence of Canadian chrysotile asbestos following inhalation. 2008
9.
Laurie
Kazan-Allen. Chronology of National Asbestos Bans, 2013;
10. Statement in response to asbestos industry efforts: “Chrysotile
asbestos use is not safe and must be banned”,
Pakistan, 2013.
TIN MỚI
-
Hội thảo khoa học chuyên đề “Chuyển đổi số về An toàn vệ sinh lao động trong bối cảnh mới”
-
Ra mắt Chi hội An toàn, vệ sinh lao động Hải Phòng
-
Tọa đàm “Nâng cao công tác an toàn vệ sinh lao động, kéo giảm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động”
-
Văn hóa an toàn - “sức mạnh” bảo vệ người lao động
-
NHỮNG TRANH LUẬN XUNG QUANH TÁC HẠI CỦA AMIĂNG TRẮNG.